
Tràm năm gân (Melaleuca quinquenervia) thuộc chi Melaleuca, họ Myrtaceae, có nguồn gốc phân bố ở Australia, New Caledonia, Papua New Guinea, Indonesia và được di thực vào nước ta từ lâu. Tràm năm gân có hàm lượng tinh dầu chiếm từ 1–3%, cao hơn nhiều so với giống Tràm bản địa là Tràm gió (M. cajuputi) (0,4–1,2%). Thành phần tinh dầu Tràm năm gân có 1,8-cineole là hợp chất chính, chiếm 10–75%. Các dòng trội Tràm năm gân (M. quinquenervia) trồng tại Phú Lộc, Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015–2016 có hàm lượng tinh dầu trung bình là 1,83% (1,8-cineole chiếm 60,41%), trồng tại Thanh Hoá có hàm lượng tinh dầu trung bình là 1,96% (1,8-cineole chiếm 60,18%).

Hiện nay, tinh dầu Tràm là mặt hàng rất được ưa chuộng, đặc biệt là tinh dầu Tràm có nguồn gốc từ tỉnh Thừa Thiên Huế. Việc sản xuất tinh dầu Tràm trước đây phần lớn lấy nguyên liệu từ các rừng Tràm tự nhiên dẫn đến việc các rừng Tràm ngày càng thu hẹp. Hiện nay, Tràm lá dài, Tràm năm gân và Tràm trà là các loại Tràm nhập nội được lựa chọn nhiều để trồng bên cạnh giống Tràm bản địa. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc nhân giống vô tính cây Tràm như gieo hạt hay giâm hom rất khó để sản xuất số lượng lớn các giống có năng suất và chất lượng tinh dầu cao đã được tuyển chọn. Nuôi cấy mô thực vật là phương pháp thích hợp nhất để giải quyết vấn đề trên.

Để đáp ứng nhu cầu về giống, QueenLabs đã tham gia cùng với nhóm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Công nghệ Gen, Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế nhân giống in vitro cây Tràm năm gân thành công. Môi trường MS bổ sung 30 g/L sucrose, 8,0 g/L agar, 1,5 mg/L BAP là môi trường thích hợp nhất để nuôi cấy mẫu đoạn thân Tràm với số chồi tái sinh là 2,13 chồi/mẫu, chiều cao chồi 1,49 cm. Môi trường tối ưu cho nhân nhanh chồi là môi trường MS bổ sung 2,5 mg/L BAP + 1,0 mg/L KIN + 0,5 mg/L NAA + 0,2 mg/L GA3 + 0,2 mg/L B2 với số chồi là 15,93 chồi/mẫu, chiều cao trung bình của cụm chồi là 2,53 cm. Rễ hình thành và phát triển tốt nhất trên môi trường ½ MS bổ sung 1,5 mg/L IBA với số rễ /chồi là 3,03 rễ và chiều dài rễ là 3,47 cm.
Công trình nghiên cứu đã được nhận đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Huế số tháng 7/2024.